Đất có diện tích đo đạc thực tế khác trên giấy tờ khi thu hồi được bồi thường thế nào?

Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa đề xuất quy định bồi thường về đất đối với trường hợp diện tích đo đạc thực tế khác với diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi.

Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) đang thực hiện lấy ý kiến các bộ, cơ quan ban ngành về dự thảo quy định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật Đất đai mới bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2025. Trong đó, Bộ đề xuất quy định bồi thường về đất với trường hợp diện tích đo đạc trên thực tế khác so với diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất. 

Theo Điều 7, dự thảo Nghị định quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nêu rõ: Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất (gọi là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 (Luật Đất đai) mà diện tích đo đạc thực tế khác với diện tích ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 (Luật Đất đai) thì được bồi thường về đất như sau:

Thứ nhất, trường hợp có sự chênh lệch diện tích giữa số liệu đo đạc thực tế với số liệu ghi trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ quy định tại Điều 137 của Luật này mà ranh giới thửa đất đang sử dụng không thay đổi so với ranh giới thửa đất tại thời điểm có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 của Luật Đất đai, không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền kề thì bồi thường về đất như sau:

1. Nếu diện tích đo đạc trên thực tế nhỏ hơn diện tích ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 (Luật Đất đai) thì bồi thường về đất theo diện tích đo đạc thực tế.

2. Nếu diện tích đo đạc trên thực tế lớn hơn diện tích ghi trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 (Luật Đất đai) thì được bồi thường về đất do việc đo đạc trước đây thiếu chính xác hoặc do khi kê khai đăng ký trước đây người sử dụng đất không kê khai hết diện tích nhưng ranh giới thửa đất đang sử dụng không thay đổi, không tranh chấp với những người sử dụng đất liền kề, không do lấn, chiếm thì được bồi thường về đất theo diện tích đo đạc thực tế.

Bộ TN&MT đang lấy ý kiến về dự thảo quy định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật Đất đai mới.

Thứ hai, trường hơp diện tích đất đo đạc thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 (Luật Đất đai), ranh giới thửa đất có thay đổi so với ranh giới thửa đất tại thời điểm có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 (Luật Đất đai) thì việc bồi thường về đất thực hiện như sau:

1. Nếu diện tích đất tăng thêm do nhận chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 (Luật Đất đai) thì được bồi thường theo diện tích đo đạc thực tế.

2. Nếu diện tích đất tăng thêm không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 (Luật Đất đai), đất đã sử dụng ổn định và không có tranh chấp, đủ điều kiện được công nhận quyền sử dụng đất theo Điều 138 của Luật Đất đai thì được bồi thường theo diện tích đo đạc thực tế.

3. Trường hợp diện tích đất tăng thêm được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận diện tích nhiều hơn là do khai hoang đất đã sử dụng ổn định và không có tranh chấp thì được bồi thường theo diện tích đo đạc thực tế.

Thứ ba, đối với phần diện tích đất nhiều hơn diện tích đất ghi trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 (Luật Đất đai) mà diện tích đất nhiều hơn là do hành vi lấn, chiếm mà có thì không được bồi thường về đất.

Thứ tư, việc bồi thường về tài sản trong trường hợp đất thu hồi quy định tại khoản 1 và 2 Điều này thực hiện theo quy định của Luật đất đai và Nghị định này.

Thứ năm, nười sử dụng đất được bồi thường về đất trong các trường hợp quy định tại Điều này mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước thì phải trừ khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính như khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất vào số tiền được bồi thường về đất.

Cũng tại Điều 6, dự thảo quy định việc bồi thường về đất đối với những người có chung quyền sử dụng đất như sau: 

Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có chung quyền sử dụng đất, khi Nhà nước thu hồi đất được bồi thường theo diện tích đất thuộc quyền sử dụng chung.

Việc cử người đại diện cho nhóm người có chung quyền sử dụng đất làm việc với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện thủ tục về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất; việc phân chia tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có chung quyền sử dụng đất thực hiện theo thỏa thuận của những người có chung quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật dân sự.

Link nội dung: https://dothi.reatimes.vn/dat-co-dien-tich-do-dac-thuc-te-khac-tren-giay-to-khi-thu-hoi-duoc-boi-thuong-the-nao-1168.html