Tín dụng xanh chiếm 4,5% tổng dư nợ nền kinh tế, doanh nghiệp và nhà băng vẫn khó gặp nhau

Tính đến ngày 31/3/2024, đã có 47 tổ chức tín dụng phát sinh cho vay tín dụng xanh với dư nợ đạt 636.964 tỉ đồng, chiếm khoảng 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Tuy nhiên, do chưa có “ngôn ngữ chung” doanh nghiệp và ngân hàng vẫn khó gặp nhau trong quá trình tăng trưởng xanh.

Tăng trưởng đều qua các năm

Tại Lễ ra mắt Diễn đàn ESG Việt Nam vừa được tổ chức, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đào Minh Tú cho biết, giai đoạn 2014 -2020 và theo dõi từ năm 2021 đến nay, các tổ tổ chức tín dụng đã có sự thay đổi nhận thức hướng tới hoạt động bền vững. Nhiều tổ chức tín dụng trên cơ sở quy định NHNN đã chủ động, hợp tác, tiếp nhận các nguồn vốn xanh, hỗ trợ tiếp nhận kỹ thuật từ các tổ chức tài chính quốc tế.

Tính đến nay, dư nợ tín dụng được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội của hệ thống tổ chức tín dụng tăng trưởng đều qua các năm, đến nay đạt khoảng 2,9 triệu tỉ đồng, chiếm hơn 21% tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế. Kể từ năm 2017-2023, dư nợ tín dụng qua hệ thống đối với lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng bình quân khoảng 22%/năm.

dao-minh-tu-1716438721.png
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đào Minh Tú cho biết đã có 47 tổ chức tín dụng phát sinh cho vay tín dụng xanh với dự nợ đạt 636.964 tỉ đồng

Ông Tú cho biết, ngành ngân hàng xác định vai trò là kênh cung ứng tài chính quan trọng của nền kinh tế, do đó đã sớm nhận thức rõ trách nhiệm trong việc “xanh hóa” dòng vốn đầu tư, bao gồm cả yêu cầu về áp dụng các tiêu chí môi trường, xã hội và quản trị (ESG), góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, xuất phát bởi 4 yếu tố.

Đầu tiên là sự gia tăng các quy định về ESG đòi hỏi các ngân hàng phải tuân thủ, cập nhật liên tục những đổi mới trong quy định và chính sách. Tiếp theo nâng cao uy tín của ngân hàng thông qua việc tích hợp, minh bạch các vấn đề liên quan đến ESG; cải thiện hiệu quả quản trị rủi ro, vì rủi ro ESG không đứng độc lập tách biệt mà còn liên đới tới các rủi ro của tổ chức tín dụng. Cuối cùng, các tổ chức tín dụng có cơ hội mở rộng thị trường, phát triển các sản phẩm tín dụng trong quá trình tiếp nhận các dòng vốn đầu tư xanh từ các tổ chức tài chính quốc tế.

"Về phía NHNN, chúng tôi hiểu rằng thực hành ESG, xanh hóa hoạt động ngành ngân hàng, hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững vừa là cơ hội, vừa là thách thức, vừa đòi hỏi phải khẩn trương, quyết liệt từ nhận thức tới hành động, vừa phải từng bước hoàn thiện các chính sách, cơ chế về tiền tệ tín dụng cho quá trình tổ chức triển khai của các tổ chức tín dụng", Phó Thống đốc khẳng định.

Doanh nghiệp và ngân hàng vẫn khó gặp nhau

Tại một hội thảo về ESG diễn ra trước đó, các chuyên gia tham dự đều cho rằng, việc chuyển đổi xanh là nhiệm vụ bắt buộc của các doanh nghiệp chứ không còn là xu hướng, hay cụm từ được dùng để marketing. Tuy nhiên, việc tiếp cụng nguồn tín dụng xanh lại không hề dễ dàng.

Thậm chí, lãnh đạo một doanh nghiệp vừa và nhỏ còn ví von ESG như một “buổi biểu diễn thính phòng ở nhà hát lớn”. Để thực hiện được ESG cần phải có rất nhiều nguồn lực,nhưng hiện vẫn chưa có cơ chế tiếp cận vốn dễ dàng.

Nói thêm về những khó khăn khi tiếp cận tín dụng xanh của doanh nghiệp, ông Đỗ Ngọc Quỳnh – Tổng thư ký Hiệp hội thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA) cho biết, khó khăn nhất cho tài chính xanh là chưa có danh mục phát triển xanh. Các chính sách hỗ trợ về thuế, lãi suất, thủ tục hành chính… cũng chưa rõ ràng.

nguon-von-1716438859.jpg
Danh mục phân loại xanh quốc gia có thể tạo ra "ngôn ngữ chung" giữa ngân hàng và doanh nghiệp, để họ gặp gỡ nhau trong việc tăng trưởng xanh

Ngoài ra, doanh nghiệp cũng không dễ huy động nguồn lực cho chuyển đổi xanh qua kênh trái phiếu. Bởi lẽ, thị trường trái phiếu xanh ở Việt Nam vẫn trong giai đoạn sơ khởi, chưa có sơ chế hỗ trợ và khuyên khích, nên khá trầm lắng.

Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam sẽ cần khoảng 368 tỷ USD, tương đương 6,8% GDP mỗi năm về vốn để đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Thế nhưng, khi chưa có khung pháp lý rõ ràng, ngành ngân hàng vẫn chỉ dựa vào hệ thống nội bộ trong phê duyệt khoản vay xanh. Đồng thời phải tự giám sát, dẫn tới phát sinh tâm lý chần chừ cho vay, phát triển tín dụng xanh.

Đồng quan điểm, TS. Bùi Quang Tuấn, Viện Trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, nước ra mới chỉ đi được 1/4 chặng đường hoàn thiện khung chính sách cho tăng trưởng xanh, trong đó yếu nhất là ở khâu thực thi chính sách.

Dù đã có sổ tay hướng dẫn tín dụng xanh, trái phiếu xanh, trái phiếu bền vững nhưng vẫn chưa có danh mục phân loại xanh, các tiêu chí về môi trường cấp quốc gia. Trong khi đó, yếu tố này có thể tạo ra “ngôn ngữ chung” giữa ngân hàng và doanh nghiệp, để họ gặp gỡ nhau trong quá trình thực hiện tăng trưởng xanh.

“Đây là lý do chủ trương đã có nhưng tín dụng với các dự án xanh mới chỉ chiếm 4 - 5% tổng dư nợ tín dụng trong nền kinh tế", TS. Bùi Quang Tuấn cho biết.

Ở góc nhìn của đơn vị cấp tín dụng, ông Nguyễn Bá Sơn – Phó giám đốc Ban Nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ BIDV cho biết, dù quan tâm đến ESG nhưng việc đầu tiên ngân hàng quan tâm vẫn là lãi suất. Năm ngoái, BIDV phát hành thành công một lô trái phiếu xanh nhưng mức lãi suất thấp hơn không đáng kể khoản vay thương mại, nhưng lại phải đưa ra quá nhiều cam kết, nguồn lực. Do đó, để giải quyết nghịch lý này cần có ưu đãi về thuế, phí cho nhà đầu tư để giúp họ dễ chấp nhận mức lãi thấp hơn cho các dự án xanh.