Ngoài Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH, dự toán NSNN và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023; Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho lĩnh vực y tế, các thị trường đất đai, bất động sản, vốn, du lịch, chính sách tài khóa mở rộng có trọng tâm, trọng điểm và chính sách tiền tệ nới lỏng thận trọng…v.v. Cùng với đó là chính sách tài khóa, tiền tệ, hạ lãi suất,...
Để tăng khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế, Chính phủ, bộ, ngành và NHNN cần ưu tiên thực hiện đồng bộ 9 nhóm giải pháp hỗ trợ cả phía cung và phía cầu.
Thứ nhất, cần tiếp tục nghiêm túc thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 6/1/2023; các chỉ thị, nghị quyết, nghị định gần đây của Quốc hội, Chính phủ; tổ chức thực hiện đúng thời hạn và tốt những quyết sách mà Quốc hội, Chính phủ đã ban hành như đã nêu trên; tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế; chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp; tiếp tục bình ổn, lành mạnh hóa các thị trường (chứng khoán, TPDN, BĐS, xăng dầu, thanh khoản ngân hàng…) nhằm củng cố niềm tin nhà đầu tư, DN và người dân.
Theo đó, cần lưu ý phải rút ngắn độ trễ chính sách, để chính sách tác động nhanh hơn, quyết liệt hơn. Theo đó, với chính sách tiền tệ, ngoài việc cho phép cơ cấu lại nợ, mua lại trái phiếu, các gói tín dụng; cần tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cả huy động và cho vay; đẩy nhanh cơ cấu lại các TCTD yếu kém nhằm hạn chế cạnh tranh lãi suất không lành mạnh, tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay.
Với chính sách tài khóa, cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện hoàn thuế VAT, các chính sách giãn hoãn thuế, phí, tiền thuê đất, giảm 2% thuế GTGT; xem xét giảm tỷ lệ đóng BHXH cho DN; xem xét chuyển phần còn lại của Chương trình phục hồi (nhất là cấu phần hỗ trợ tiền thuê nhà, hỗ trợ 2% lãi suất…) sang Quỹ phát triển nhà ở xã hội (mới có thể cho vay lãi suất thấp và nguồn vốn mồi bền vững); nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ phát triển DNNVV và các quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV tại các địa phương...v.v.
Đặc biệt, mọi quyết sách đều cần phân giao trách nhiệm, thời hạn cụ thể, có chế tài nghiêm nếu không thực hiện. Những quyết sách này mới chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ phải là giải quyết được tâm lý sợ sai, đùn đẩy, sợ trách nhiệm. Theo đó, cơ chế, chính sách bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, vì cái chung cần sớm được cụ thể hóa và nhất quán, đồng bộ thực hiện. Về lâu dài, chính sách tinh giản bộ máy, nâng cao trách nhiệm và chất lượng thực thi công vụ gắn với cải cách tiền lương là cấp thiết.
Thứ hai, Bộ KHĐT chủ trì phối hợp với các Bộ Tài chính, các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh triển khai Chương trình phục hồi 2022-2023, các chương trình mục tiêu quốc gia và giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, đầu tư cơ sở hạ tầng; đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hồ sơ dự án, giải phóng mặt bằng, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, ứng dụng CNTT trong giải quyết thủ tục về đầu tư công; kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong triển khai; chú trọng cơ cấu lại nền kinh tế (nhất là các DNNN, dự án yếu kém, TCTD yếu kém…) nhằm thu hút và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn.
Thứ ba, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó cần chú trọng các động lực tăng trưởng: (i) quyết tâm đẩy mạnh giải ngân đầu tư công bởi theo đánh giá của Viện ĐT&NC BIDV, nếu giải ngân được 95% tổng vốn 713 nghìn tỷ đồng như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đầu tư Nhà nước có thể tăng 30%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 13,2% và đóng góp 2 điểm % vào tăng trưởng GDP năm 2023; (ii) kích cầu tiêu dùng nội địa, theo tính toán của chúng tôi, tiêu dùng (loại trừ yếu tố giá) tăng thêm 1 điểm % sẽ giúp GDP tăng thêm 0,2 điểm %; (iii) quan tâm thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng của các đầu tàu nền kinh tế, nhất là Hà Nội và Tp. HCM (hai TP này đóng góp 39% tăng trưởng GDP năm 2019)…v.v.
Thứ tư, tiếp tục thực hiện phối hợp chính sách hiệu quả (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách giá cả và các chính sách vĩ mô khác) nhằm tiếp tục giảm lãi suất, bình ổn tỷ giá, giá cả hàng hóa thiết yếu và các thị trường tài chính, đất đai, xây dựng, BĐS…; nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi, tăng trưởng. Theo đó, duy trì chính sách tài khóa mở rộng có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng khâu thực thi; chính sách tiền tệ chuyển trạng thái từ “chắc chắn” sang “nới lỏng, linh hoạt” cùng với việc đẩy mạnh cơ cấu lại các TCTD gắn voiowis xử lý nợ xấu, đảm bảo an toàn và ổn định hệ thống.
Thứ năm, cần có đánh giá đúng và trúng thực trạng tình hình doanh nghiệp; từ đó tháo gỡ kịp thời và chính xác những tồn tại, vướng mắc đã và đang được chỉ ra; quan tâm hỗ trợ DN chịu tác động tiêu cực từ suy giảm xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng bằng cách: (i) khai thác tốt hơn các FTAs đã ký kết, thực hiện hiệu quả hơn công tác xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, đa dạng hóa hàng hóa và thị trường xuất khẩu, đầu tư; (ii) tiếp tục đẩy mạnh cải thiện thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, thủ tục hành chính, nhất là bộ máy thực thi công vụ; (iii) triển khai hiệu quả các biện pháp khuyến mại, kích cầu thương mại và du lịch trong nước; (iv) rà soát, cập nhật và điều chỉnh cơ chế, chính sách thu hút FDI theo hướng tập trung vào cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là các vấn đề về thể chế, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực - là các yếu tố cơ bản khi đưa ra các quyết định kinh doanh của nhà đầu tư; (v) quyết liệt tháo gỡ các vướng mắc, rào cản lớn đối với DN hiện nay, nhất là về vấn đề pháp lý và tiếp cận thị trường (nhất là đất đai, điện năng, PCCC, đăng kiểm; visa cho du khách và chuyên gia; hoàn thuế GTGT…); những vụ việc vi phạm về chứng khoán, bất động sản…cần sớm được giải quyết dứt điểm, củng cố niềm tin của người dân và DN.
Thứ sáu, gia tăng nguồn lực cho các TCTD để có thể hỗ trợ nền kinh tế. Để tăng nguồn lực cho các TCTD, Quốc hội, Chính phủ tiếp tục cho các NHTMNN giữ lại lợi nhuận Nhà nước hàng năm để tăng vốn, tạo điều kiện các TCTD dẫn dắt, tham gia tái cơ cấu các TCTD, cũng như tiết giảm chi phí, có điều kiện triển khai gói hỗ trợ và giảm mặt bằng lãi suất cho vay.
Thứ bảy, đồng bộ phát triển thị trường tài chính cân bằng hơn, theo đó, cần tập trung tháo gỡ khó khăn cho thị trường TPDN (cũng là tăng khả năng huy động vốn trung – dài hạn của DN), giảm bớt áp lực tín dụng trung dài hạn cho hệ thống ngân hàng; có đề án, chương trình và giải pháp cụ thể về việc nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam (từ “cận biên” lên “mới nổi”).
Thứ tám, đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế (nhất là sửa đổi luật đất đai, luật nhà ở, luật kinh doanh BĐS, luật các TCTD….); cùng với việc tháo gỡ rào cản, chú trọng khâu thực thi và phối hợp chính sách; quan tâm xây dựng thể chế chính sách cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, vừa tận dụng cơ hội, vừa hỗ trợ vượt qua khó khăn, thách thức. Xây dựng chiến lược, giải pháp cụ thể để tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế, của các ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ chín, đối với doanh nghiệp và các tổ chức tài chính, trong khó khăn chung, bản thân DN cần ưu tiên thực hiện 4 nhóm giải pháp cụ thể.
Một là, DN cần quyết tâm cơ cấu lại, giảm chi phí; nâng cao hiệu quả, trách nhiệm sử dụng vốn, minh bạch (theo đúng kế hoạch, hồ sơ phát hành công cụ nợ hoặc vay vốn) và giải quyết đúng các cam kết trả nợ (chấp nhận bán tài sản, nếu cần), chủ động có phương án, giải pháp cụ thể đối với TPDN đáo hạn còn lại trong năm 2023 và 2024; đẩy mạnh cơ cấu lại hoạt động như xem xét tạm dừng các dự án không cấp bách, ưu tiên các dự án đã cam kết với nhà đầu tư…v.v. Đây cũng là điều kiện tất yếu để tăng sức khỏe của DN, giúp DN dễ dàng đáp ứng tốt hơn với các điều kiện của thị trường vốn (tín dụng, phát hành TPDN…).
Hai là, nâng cao tính công khai, minh bạch trong huy động vốn, sử dụng vốn: (i) Các DN cần có phương án huy động vốn cụ thể, khả thi, trung thực; lựa chọn phương thức, thời điểm huy động vốn phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn minh bạch, khả năng trả nợ…; (ii) Xây dựng qui trình, có lộ trình áp dụng xếp hạng tín nhiệm TPDN phù hợp; (iii) Tăng cường thu hút vốn đầu tư chiến lược, tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả kinh doanh, uy tín của DN.
Ba là, đa dạng hóa nguồn vốn (tránh chỉ phụ thuộc vào một nguồn tín dụng, quan tâm hơn đến phương thức thuê tài chính, tài trợ chuỗi cung ứng); tăng cường kiểm soát rủi ro, nhất là rủi ro tài chính, lãi suất, tỷ giá (có thể hợp tác với các tổ chức tài chính)…v.v.
Bốn là, DN cũng cần tính cả bài toán dài hơi hơn như chú trọng chuyển đổi số, ứng dụng CNTT trong phát triển, quản lý, vận hành hoạt động DN; đào tạo, phát triển đội ngũ nhân sự chất lượng cao và đẩy mạnh xanh hóa, phát triển bền vững. Đây cũng là xu thế tất yếu hiện nay và trong thời gian tới.
Đối với các tổ chức tài chính (bên cho vay), chủ động thực hiện Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại nợ, Thông tư 06 (sửa đổi Thông tư 39) về hoạt động cho vay của TCTD; rà soát, linh hoạt hơn, phù hợp hơn trong việc áp dụng các điều kiện tín dụng (không hạ chuẩn) như phương án nhận TSBĐ là hàng hóa, hàng tồn kho...; đơn giản hóa quy trình, thủ tục, đẩy mạnh ứng dụng CNTT và chuyển đổi số (vừa là tiết giảm chi phí, vừa giảm thủ tục giấy tờ và phù hợp với xu thế)….v.v.