Đề xuất người chủ động xin nghỉ việc không được hưởng bảo hiểm thất nghiệp

Trong dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) có đề xuất người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động dù đúng quy định cũng sẽ không được hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Đề xuất này đang bị nhiều người cho rằng bất hợp lý.

Luật Việc làm năm 2013 quy định, người lao động đang đóng bảo hiểm thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, ngoại trừ các trường hợp: Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật; Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng.

nguoi-lao-dong-1713176089.jpg
Đề xuất người chủ động xin nghỉ việc không được hưởng bảo hiểm thất nghiệp

Nhưng trong dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) đã có sự điều chỉnh với quy định trên. Theo đó, dự thảo đề xuất người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc thì sẽ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc chỉ được hưởng trợ cấp thất nghiệp trong trường hợp "được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước theo quy định Bộ luật Lao động".

Chị Lê Kim Phụng - công nhân tại một công ty trên địa bàn quận Bình Tân (TP.  HCM) chia sẻ, chị khá hoang mang khi biết có đề xuất trên. Chị Phụng bộc bạch, người làm công hưởng lương, cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc vào đồng lương thì không ai muốn mình rơi vào cảnh thất nghiệp. Đôi khi người lao động phải chủ động xin nghỉ việc vì nhiều lý do, không có sự lựa chọn nào khác.

Có ý kiến cho rằng người lao động nghỉ việc để hưởng trợ cấp thất nghiệp thì so với thu nhập đi làm (lương cơ bản, các khoản phụ cấp, tiền thưởng…), trợ cấp thất nghiệp (60% lương cơ bản) thấp hơn nhiều, không đủ đảm bảo cuộc sống. Chị mong mỏi khi sửa đổi Luật Việc làm, nếu không thể tăng thì cũng đừng giảm quyền lợi của người lao động.

Bà Vũ Thị Hiền - Trưởng phòng Nhân sự Công ty TNHH May mặc Quảng Việt (huyện Củ Chi, TP. HCM) cho hay, bà khá "sốc" khi đọc quy định này. Bởi nếu quy định được thông qua, số đông người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp khi nghỉ việc sẽ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp.

nguoi-lao-dong-1-1713176125.jpg
Trợ cấp thất nghiệp không chỉ bù đắp thu nhập trong thời gian chưa tìm được việc mà còn là quyền lợi chính đáng của người lao động

Bà Hiền cho biết, từ kinh nghiệp nhiều năm làm công tác quản lý nhân sự và hiện quản lý khoảng 5.200 lao động, bà thấy rằng tình trạng chung của công ty cũng như tại các doanh nghiệp khác là đa phần lao động chủ động xin nghỉ việc đều. Lý do nghỉ việc thì rất nhiều như hoàn cảnh gia đình, không có người chăm sóc con nhỏ, sức khỏe không đảm bảo, công việc không phù hợp…

Quy định của pháp luật hiện hành, người lao động chủ động xin nghỉ việc đúng luật thì vẫn được giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp. Khoản trợ cấp này không chỉ bù đắp thu nhập trong thời gian chưa tìm được việc mà còn là quyền lợi chính đáng của người lao động khi tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo nguyên tắc có đóng - có hưởng.

Thế nên bà Hiền băn khoăn, đề xuất này là chủ đích hay chỉ là sự nhầm lẫn của ban soạn thảo? Nếu nhầm lẫn thì điều chỉnh cho đúng để không gây vướng mắc trong quá trình thực hiện. Còn nếu là chủ đích, bà cho rằng cần xem xét, nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và đưa ra căn cứ hợp lý.

Ông Trần Văn Triều - Giám đốc Trung tâm Tư vấn pháp luật Liên đoàn Lao động TP. HCM cũng không đồng tình với đề xuất này. Ông cho biết, quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động được công nhận tại Điều 35 Bộ luật Lao động năm 2019.

Theo đó, người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần lý do, chỉ cần tuân thủ đúng quy định thời gian báo trước. Do vậy, đề xuất trên không chỉ mâu thuẫn với Bộ luật Lao động mà còn hạn chế quyền lợi chính đáng của người tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

Ông Triều cho rằng, nên giữ nguyên đối tượng hưởng như quy định hiện hành. Bên cạnh đó, cần xem xét gia tăng mức hưởng trợ cấp thất nghiệp thay vì 60% như hiện nay, lên 75%. Mức lương đóng bảo hiểm thất nghiệp thấp (chỉ bằng hoặc cao hơn một chút so với mức lương tối thiểu vùng) dẫn đến mức hưởng không đủ bù đắp được thu nhập cho người lao động trong thời gian chưa có việc làm. Sự điều chỉnh này cũng sẽ khiến người lao động cảm thấy công bằng hơn khi quy định hiện hành khống chế mức hưởng tối đa 12 tháng, tương ứng 144 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, số năm đóng dư không được bảo lưu.