Áp dụng hoãn xuất cảnh theo ngưỡng nợ thuế cụ thể là chưa hợp lý

Bộ Tài chính vừa đề xuất dự thảo nghị định quy định về các trường hợp tạm hoãn xuất cảnh đối với cá nhân và doanh nghiệp có nợ thuế quá hạn. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, cần xây dựng bộ tiêu chí với nhiều yếu tố, khía cạnh chứ không nên chỉ quy định ngưỡng nợ thuế cụ thể.

Theo đề xuất, cá nhân có số tiền thuế nợ quá hạn trên 120 ngày từ 10 triệu đồng trở lên sẽ bị tạm hoãn xuất cảnh. Đối với doanh nghiệp, nếu số tiền nợ thuế quá hạn trên 120 ngày từ 100 triệu đồng trở lên, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp cũng sẽ bị áp dụng biện pháp này.

Khoảng 380.000 cá nhân sẽ bị tạm hoãn xuất cảnh

Riêng đối với các trường hợp người nộp thuế không còn hoạt động tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký mà vẫn còn nợ thuế, cơ quan thuế sẽ áp dụng ngay biện pháp tạm hoãn xuất cảnh để thu hồi nợ thuế. Cơ quan thuế sẽ thông báo biện pháp này qua phương thức điện tử, và nếu không thực hiện được, thông báo sẽ được đăng tải trên trang thông tin điện tử của cơ quan quản lý thuế.

Sau 30 ngày kể từ khi thông báo, nếu người nộp thuế chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế, cơ quan quản lý thuế sẽ gửi văn bản về việc tạm hoãn xuất cảnh đến cơ quan xuất nhập cảnh để thực hiện biện pháp này.

Bộ Tài chính cho biết, chính sách hạn chế đi lại đối với cá nhân nợ thuế đã được áp dụng ở một số quốc gia như Trung Quốc, Malaysia, Mỹ, nhằm bảo vệ quyền lợi quốc gia. Kể từ cuối năm 2023, cơ quan quản lý thuế đã tích cực triển khai biện pháp này đối với những trường hợp không còn hoạt động tại địa chỉ đăng ký nhưng vẫn còn nợ thuế.

xuat-canh-2-1733629834.jpg
Bộ Tài chính ước tính có khoảng 380.000 cá nhân trên toàn quốc sẽ bị tạm hoãn xuất cảnh

Kết quả thu hồi nợ thuế đã có tiến triển rõ rệt, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã tự giác nộp thuế để gỡ bỏ tạm hoãn xuất cảnh. Nếu đề xuất này được áp dụng, Bộ Tài chính ước tính có khoảng 380.000 cá nhân trên toàn quốc sẽ bị tạm hoãn xuất cảnh.

Dựa trên khảo sát, Bộ Tài chính cho biết nếu ngưỡng nợ thuế đối với cá nhân kinh doanh và chủ hộ kinh doanh từ 50 triệu đồng trở lên, và đối với doanh nghiệp từ 500 triệu đồng trở lên, sẽ có khoảng 81.000 cá nhân thuộc diện tạm hoãn xuất cảnh.

Nếu ngưỡng nợ thuế được nâng lên 100 triệu đồng đối với cá nhân kinh doanh, chủ hộ kinh doanh, và từ 1 tỷ đồng đối với doanh nghiệp, số cá nhân bị tạm hoãn xuất cảnh sẽ giảm xuống còn khoảng 40.000 người.

Tuy nhiên, Bộ Tài chính đã quyết định chọn ngưỡng nợ thuế trên 120 ngày để đảm bảo hiệu quả trong việc thu hồi nợ thuế, đồng thời gia tăng tính tuân thủ của người nộp thuế. Mục tiêu là tránh tình trạng nợ thuế kéo dài khó thu hồi, đồng thời không gây ảnh hưởng lớn đến môi trường kinh doanh, hỗ trợ người nộp thuế và duy trì nguồn thu ngân sách nhà nước.

Kể từ cuối năm 2023, ngành thuế đã tăng cường áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh, đặc biệt đối với các trường hợp nợ thuế lớn, với tổng số tiền nợ lên đến khoảng 15.602 tỷ đồng. Gần đây, một số người đại diện pháp luật của các doanh nghiệp lớn, như Bamboo Airways và Trung Nam Group, cũng đã bị áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh do nợ thuế.

Cần xây dựng bộ tiêu chí làm căn cứ hoãn xuất cảnh

Về vấn đề tạm hoãn xuất cảnh do nợ thuế, nhiều ý kiến cho rằng quy định này là cần thiết, nhưng cũng cần được sửa đổi và bổ sung để phù hợp hơn, đặc biệt là việc quy định rõ ngưỡng nợ thuế cụ thể để áp dụng biện pháp này.

Tại kỳ họp thứ 8, ông Lê Quang Mạnh, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, nhận định rằng tạm hoãn xuất cảnh chỉ là một biện pháp nhỏ và không phải là biện pháp mạnh nhất để xử lý vi phạm. Vì vậy, ủy ban này đã đề nghị Chính phủ bổ sung ngưỡng nợ thuế cụ thể để hạn chế phạm vi áp dụng biện pháp cấm xuất cảnh.

Đồng quan điểm, PGS.TS Vũ Sỹ Cường, Học viện Tài chính, cũng cho rằng để có một ngưỡng phù hợp áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với người nợ thuế, ngành thuế cần sử dụng công cụ thống kê và phân loại doanh nghiệp dựa trên đặc thù của từng nhóm ngành.

Tuy nhiên, ngưỡng này không nên quá nhỏ, bởi nếu làm vậy sẽ không đủ tính răn đe, đồng thời phát sinh chi phí hành chính quản lý lớn, và đặc biệt là không nên khiến số lượng người nợ thuế bị hoãn xuất cảnh quá nhiều.

Cũng theo ông Cường, trong thực tế, việc áp dụng ngưỡng nợ thuế làm căn cứ tạm hoãn xuất cảnh sẽ gặp không ít khó khăn. Có những doanh nghiệp nợ thuế lớn nhưng lại không có nhu cầu ra nước ngoài, trong khi đó lại có những doanh nghiệp nợ ít, chủ yếu vì gặp khó khăn tạm thời, nhưng lại cần xuất cảnh để gặp đối tác hoặc tìm kiếm đơn hàng.

hoan-xuat-canh-1733629824.jpg
Ngưỡng nợ thuế chỉ nên là một yếu tố trong bộ tiêu chí tổng thể, chứ không thể chỉ căn cứ vào mức nợ cụ thể để quyết định việc hoãn xuất cảnh

Việc áp dụng ngay lập tức quy định tạm hoãn xuất cảnh có thể khiến những doanh nghiệp này gặp khó khăn thêm. Do đó, ông đề xuất ngành thuế nên nghiên cứu và đưa vào quy định nhiều ngưỡng tạm hoãn xuất cảnh, phân theo từng nhóm doanh nghiệp và giá trị nợ thuế.

TS Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TƯ - CIEM) lại cho rằng việc nghiên cứu ngưỡng nợ thuế để áp dụng biện pháp hoãn xuất cảnh đối với cá nhân đại diện pháp luật của doanh nghiệp là chưa đủ đầy và khó thuyết phục.

Bà Thảo nhận định, việc đưa ra một ngưỡng nợ thuế cụ thể, như 5 triệu, 10 triệu hay 100 triệu đồng, và áp dụng biện pháp hoãn xuất cảnh là điều không hợp lý. Ngành thuế cần xây dựng một bộ tiêu chí rõ ràng hơn, bao gồm việc quy định nợ thuế bao nhiêu lần và trong thời gian bao lâu. Bà Thảo nhấn mạnh rằng cần phải đánh giá mức độ chây ì của doanh nghiệp, xem họ đã sử dụng những biện pháp nào để thực hiện nghĩa vụ thuế, và đánh giá quy mô cũng như khả năng thực hiện nghĩa vụ đóng thuế của doanh nghiệp.

Theo bà Thảo, ngưỡng nợ thuế chỉ nên là một yếu tố trong bộ tiêu chí tổng thể, chứ không thể chỉ căn cứ vào mức nợ cụ thể để quyết định việc hoãn xuất cảnh. Việc xác định ngưỡng nợ thuế để đưa vào tiêu chí cần phải được đánh giá một cách khoa học, hợp lý và nhân văn, chứ không thể chỉ là một quyết định cảm tính. Bên cạnh đó, số liệu từ cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế cần được đưa vào hệ thống tính toán để có thể đưa ra ngưỡng khả thi và hợp lý cho từng doanh nghiệp, từng ngành hàng.